Đi tìm ý nghĩa thực sự thành ngữ chày cối

Chày cối Việt Nam có mặt liên tục suốt từ thời những vua Hùng cho tới tận ngày nay. Sinh sống trên thôn quê hay tỉnh thành, hầu như nhà nào cũng đã có lúc có chày cối. Giã gạo, xay bột, giã giò, giã cua. Khiến bánh, nấu chè, bếp núc… Ko có chày cối thì ko xong.

Ngàn 5 chày cối

Chày cối được đựng trong nhà, được rước ra sân đình. Chày cối có mặt tại hội hè, cưới xin, tang ma. Buồn vui cùng mọi người.

Chày cối quấn quýt bên nhau. Chung thuỷ 1 chày 1 cối. Hợp tác làm cho ăn. Đâu cần thì gọi, chày cối ra tay giã cho 1 trận là đâu vào đấy.

Nhưng cũng có lúc chày cối bị chia lìa. Anh đường anh, tôi đường tôi. Mạnh ai nấy sống.

Khiến bánh dày chẳng hạn. Chỉ cần trải xôi trên cái chiếu buồm dấp ướt, dùng chày cũng bịt chiếu buồm mà giã. Ko cần cối.

Ngược lại, xay thóc xay gạo hay xay bột thì chỉ có cối, ko cần chày.

Giã giò là trường hợp đặc biệt hiếm có. 1 cối 2 chày!

Chày cối được chia thành… đẳng cấp. Ăn có thể mặc bền có cối đá. Phần đông dùng cối gỗ. Ăn xó mó niêu thì cối đất cũng xong. Chày giã thông thường là chày gỗ. Trừ chày tre của dân nghèo và chày đá của 1 vài ông lang.

Đại khái, có mấy loại chày cối lớn bé khác nhau. Lớn nhất, cồng kềnh nhất là cối giã gạo. Cối chôn dưới đất. Chày được lắp đặt vào đầu 1 cần gỗ dài 2 bố thước. Cần siêu nặng, người giã gạo nên đứng lên cần, dùng đa số sức nặng của thân hình để điều khiển cho cần chuyển động lên xuống. Ai cũng… ngại giã gạo 1 mình. Nhiều người cùng giã thì… vui hơn, đỡ mệt hơn!

Làng An Thái làm cho giấy cũng dùng 1 loại cối lớn cồng kềnh khác để giã vỏ dó. Dân làng giã dó bằng chày máy “xanh sạch đẹp”. Vận dụng sức bật của 1 cành tre để nâng chày lên cao.

Cối giã giò bé hơn 2 loại cối trên. Lòng cối khá sâu, rộng. Giã giò nên là dân “vai u thịt bắp” new kham nổi. Cả ngày cởi trần “đánh vật”, 2 tay “múa” 2 dòng chày nặng chình chịch.

Giã giò con cò biết bay

Xương xông, lá lốt làm cho chay cho cò.

Câu ca dao new nghe thấy ngộ nghĩnh, thậm chí tưởng là có mâu thuẫn. Giã giò để làm cho chay cho cò. Dùng đồ mặn để cúng chay à ?

Chữ chay (Việt) là do chữ trai (Hán) mà ra. Trai nghĩa là ăn chay. Trai nâng cao là thầy tu ăn chay.

Chữ trai còn có thêm 1 nghĩa khác. Trai tiếu là sư làm cho đàn cầu cúng (Hán Việt từ điển Đào Duy Anh; Hán Việt tự động điển Thiều Chửu chép là chai, chai tiếu).

“Khiến chay” của câu ca dao được hiểu theo nghĩa là làm cho đàn cầu cúng. Nôm na là làm cho cỗ cúng. Cỗ cúng của dân gian có thể là cỗ mặn, ko buộc phải} nên là cỗ chay.

Xem Thêm  Survive or thrive? Overqualified a matter of administration

Nói tiếp tới cối có cối giã cua, giã vừng, bếp núc hàng ngày tương đối bé, lòng cối chỉ bằng dòng bát ăn cơm. Cối bằng đá hay gỗ.

Bé nhất là cối giã trầu bằng bạc, bằng thau của những cụ nhà giàu. Cối bỏ túi, đựng trong hầu bao, đi chơi mang trong mình theo được.

Biểu tượng đặc biệt

Chức năng của chày cối là đâm, giã, nghiền, xay. Bên cạnh chuyện dùng cho đời sống hàng ngày, chày cối còn có mặt trong vài tình trạng đặc biệt :

Thời Hùng Vương, nhà nào có người chết thì lấy chày cối ra giã để báo tin buồn sở hữu làng xóm. 1 bí quyết mortgage báo như loa phát tin của phường xóm hiện tại}.

Chày cối được tín ngưỡng phồn thực dùng làm cho biểu tượng của sinh thực khí đực (chày) và dòng (cối). Giã cối tượng trưng hành động trai gái giao phối.

Hội làng được chày cối chủ trì, giúp vui hoạt náo. Giã cối tạo âm thanh rộn ràng, động tác gợi cảm. Kích thích, khuyến khích trai gái múa hát, tỏ tình.

Đời sau, ko biết từ bao giờ, tín ngưỡng phồn thực chày cối bị nõn nường thay thế thế. Nõn (sinh thực khí nam) nường (sinh thực khí nữ) siêu trần tục, trần trụi.

1 vài làng xã miền Bắc “quá khích”, cử 18 cặp trai gái rước bố mươi 6 dòng nõn nường. Đám rước được 1 cụ giàu kinh nghiệm bản thân dẫn đầu. Cụ biểu diễn cảnh nõn nường quấn quýt nhau. Đâm vào, rút ra. Trai gái theo sau múa theo cụ. Dân làng ai cũng thích xem rước nõn nường.

Có người chế diễu: “36 dòng nõn nường, dòng để đầu giường là 37”.

Tranh dân gian Oger (1908) có tấm Đón dâu bên cạnh cổng cho thấy tục giã cối còn có mặt cả trong lễ cưới và tục này còn tồn tại trên 1 số làng tới tận đầu thế kỉ 20.

Hôm làm cho lễ rước dâu, nhà trai cho đặt sẵn 1 bộ chày cối trước cổng. Chờ lúc họ nhà gái tới sắp thì sai người giã cối đón mừng cô dâu. Giã cối tạo tiếng vang rộn rã, đồng thời chúc cô dâu sớm có “con bồng con bế” cho vui cửa vui nhà.

Tấm tranh Oger kín đáo, dí dỏm cho biết nhà trai mong muốn cô dâu chú rể vui vẽ tới độ… chày hăng say đâm vỡ cả cối.

Thành ngữ “chày cối” xuất hiện lúc nào?

Đại Nam quốc âm tự động vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) có chày, có cối nhưng chưa có thành ngữ nào đả động tới chày cối.

Dictionnaire annamite-français của Génibrel (1898) có chày. Có Cứng cổ như chày. Rắn như chày. Có cả chầy (dòng chày của người Bắc). Vắt cổ chầy ra nước. Chịu chầy chịu cối. Khất chầy khất cối.

Xem Thêm  Thanh đồng là những ai ? | Tâm Linh Đại Việt

Dictionnaire vietnamien-chinois-français của Gustave Hue (1937) cũng có chầy. Khất chầy khất cối. Nhận chầy nhận cối cho xong việc. Sách khó, đọc chầy đọc cối.

Bài Phú đồ ngông của Nguyễn Khuyến có câu :

Lương nguyệt đốn lại nài nhất đệ, bàn mỏng bàn dày;

Tiền hương khoa toan bổ đồng môn, thu chày thu cối

Có thể phỏng đoán là Nguyễn Khuyến làm cho bài Phú đồ ngông trong khoảng thời kì cụ ngồi dạy học, mô tê răng rứa, trong dinh riêng của Hoàng Cao Khải, vào những 5 1891-1893.

Trường hợp đúng là bài Phú đồ ngông được làm cho 5 1891 – 1893 thì người trước tiên đưa chày cối vào văn học là cụ Nguyễn Khuyến. Thành ngữ thu chày thu cối đã mở đường dọn lối cho những thành ngữ chày cối của những 5 sau.

Tiếng Việt ngày nay có:

– Đầu như cối chày máy: Giễu những kẻ hay bị người ta đánh vào đầu (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam).

Giải thích của Nguyễn Lân tương đối bất ngờ.

Đầu như cối chày máy là hình ảnh dòng đầu gật gù, cúi xuống ngẩng lên như dòng chày giã gạo ngày xưa. Câu nói ám chỉ những kẻ có thói quen gật đầu như dòng máy. 1 thời được dùng để ám chỉ mấy ông… nghị gật!

– Khất chày khất cối: Nói người có nợ ko trả được, chỉ hẹn liều hết lần này tới lần khác (Nguyễn Lân).

– Cãi chày cãi cối: Chê người cãi liều, ko có lí lẽ thích đáng (Nguyễn Lân). Cố cãi, cãi bừa 1 bí quyết ko có lí lẽ gì cả (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê).

– Chịu chày, chịu cối: Chê kẻ có nợ ko chịu trả (Nguyễn Lân).

Nhưng, thu chày thu cối của Nguyễn Khuyến nghĩa là gì? Tại sao Nguyễn Khuyến lại viết chày cối thay thế cho chầy cối ?

Nội dung mấy thành ngữ được nêu ra cho thấy chày cối có 2 nghĩa khác nhau.

– Nghĩa thứ 1 là nghĩa đen, mô tả rõ ràng động tác của dòng chày máy giã gạo.

Lạy chày (lạy cối) và Đầu như (cối) chày máy mô tả dòng đầu cúi xuống ngẩng lên giống dòng chày máy.

Còn cối ? Loại cối ko biết cử động. Ko có ai lạy (như) cối, ko có đầu nào là đầu (gật gù) như cối.

Sở dĩ người ta đưa cối vào câu nói là vì câu nói có chày. Tưởng là làm cho như thế câu nói sẽ du dương hơn. Ko ngờ lại ngọng nghịu, khó nghe.

– Nghĩa thứ 2 của chày cối là nghĩa bóng, ko dính dáng gì sở hữu dòng chày dòng cối.

Thu chày thu cối, viết chày viết cối, chịu chày chịu cối, cãi chày cãi cối, khất chày khất cối… đa số đều xa lạ sở hữu chày cối dùng để đâm giã xay nghiền.

Xem Thêm  Clipboard là gì? Ý nghĩa và phương pháp dùng Clipboard hiệu quả

Nghĩa bóng của chày cối là liều lĩnh, ko có lí sự. Thí dụ: Khiến chày làm cho cối. Nói chày nói cối. Được cãi chày, thua cãi cối (Việt Nam tự động điển, Khai Trí Tiến Đức, 1931).

Nghĩa thực bất ngờ

Nhưng, xét cho kĩ thì thu chày thu cối, chịu chày chịu cối, khất chày khất cối ko nên là hành động liều lĩnh, ko có lí sự. Nghĩa bóng của Việt Nam tự động điển ko đúng cho mấy trường hợp này.

Tiếng Việt có chầy và cố.

– Chầy là muộn, chậm, nhiều ngày, dài.

Lâm Chi đường bộ tháng chầy

5 chầy, tháng chẳng bao nhiều ngày mà chầy (Kiều).

Ko chóng thì chầy đồng nghĩa sở hữu Ko sớm thì muộn.

– Cố là gắng sức, đưa sức ra nhiều hơn bình thường để làm cho việc gì cho kì được.

Cố nhớ. Ăn cố. Cố đấm ăn xôi.

Thu chầy là thu nhiều ngày, thu dai dẳng. Thu cố là cố thu cho bằng được.

Người Bắc gọi dòng chày là chầy. Chầy (cối) đồng âm sở hữu chầy (nhiều ngày, dài).

Loại chày được Huỳnh Tịnh Của và Génibrel ghi bằng chữ quốc ngữ trong tự động điển dần dần loại bỏ dòng chầy của chữ nôm. Thậm chí chầy (nhiều ngày, chậm) cũng bị viết là chày.

Thu chầy (thu nhiều ngày) bị nhầm thành thu chày (thu như… dòng chày).

Có chày thì nên có cối. Có thu chày thì chỉ cần lôi cổ thu cố (cố thu) ra sửa sai… thành thu cối (thu như… dòng cối).

Rốt cuộc, thu chầy thu cố (nghĩa là thu nhiều ngày, cố thu) bị hiểu sai, bị chữa bậy thành thu chày thu cối (nghĩa là… ko có nghĩa).

Oan cho cụ Nguyễn Khuyến. Văn nôm của cụ bị đám học trò học trẹt sửa sai thành sai bét.

Toàn bộ chày, cối của những thành ngữ khác như viết chày viết cối (cố viết cho nhiều), khất chày khất cối (cố khất lần cho qua), đọc chầy đọc cối (đọc chậm, cố gắng đọc)… đều là biến dạng của chầy, cố.

Chày cối vốn là đồ dùng hàng ngày quen thuộc của người Việt Nam. Chày cối sánh đôi. Giản dị, trong sáng. Ko lôi thôi như sách vở, văn chương.

Từ ngày Pháp xâm chiếm nước ta, ta có thêm 2 dòng cối ấn tượng. Loại súng cối và dòng mũ cối của thực dân. Súng cối là súng mortier gây nhiều tội ác (mortier cũng có nghĩa là dòng cối). Mũ cối hay mũ cát (casque) bị ta đồng hoá dễ dàng.

Thế kỉ 21…

Nhà nhà dùng máy xay điện. Xay cà phê, xay thịt, xay trái cây… Dao quay tít mù. Nháy mắt là xong. Chày cối có nguy cơ bị xoá sổ. Nhưng còn nhiều ngày new hết hứa chày hứa cối, tán chày tán cối.